Đệ Thập Tắc (Bài Thứ Mười)

ĐỆ THẬP TẮC

THANH THOÁT CÔ BẦN

 

  • CỬ:

Tào Sơn hoà thượng nhân tăng vấn:

       — Thanh Thoát cô bần, khất sư chẩn tế.

Sơn vân:

       — Thoát xa lê!

Thoát ứng:

       — Nặc.

Sơn viết:

       — Thanh Nguyên tự gia tửu, tam

chản khiết liễu, do đạo vị triêm thần?

 

  • BÌNH:

Thanh Thoát du cơ, thị hà tâm hành? Tào Sơn cụ nhãn, thâm biện lai cô. Nhiên tuy như thị, thả đạo ná lý thị Thoát xà lê khiết tửu xứ?

 

  • TỤNG:

Bần tự Phạm Nhiễm,

Khí như Hạng Võ.

Hoạt kế tuy vô,

Cảm dữ đấu phú.

                   

BÀI THỨ MƯỜI

THANH THOÁT NGHÈO KHỔ

  • CÔNG ÁN:

Một ông tăng hỏi hoà thượng Tào Sơn[1]:

       — Thanh Thoát này nghèo khổ, xin Ngài cứu giúp.

Sư nói:

       — Thầy Thoát!

Ông tăng đáp:

       — Dạ!

Sư nói:

       — Rượu Thanh Nguyên vốn sẵn của nhà[2], đã uống xong ba chén sao còn bảo chưa dính môi?

 

  • LỜI BÀN:

Thanh Thoát trình cơ như vậy là ý làm sao? Tào Sơn lanh mắt, hiểu rõ ngay ý tứ. Tuy vậy, xem vào đâu mà bảo thầy Thanh Thoát uống rượu?

 

  • KỆ TỤNG:

Nghèo tợ Phạm Nhiễm[3],

Oai như Hạng Võ[4].

Nghề nghiệp trống trơn,

Dám so phú hộ.


[1] Tào Sơn: (840-901) Pháp danh Bổn Tịch. Trước tu ở núi Linh Thạch, sau thọ học và đắc pháp với ngài Lương Giới ở núi Động Sơn. Cuối cùng đến núi Cát Thuỷ và đổi tên núi này là Tào Sơn dựng Thiền đường dạy chúng. Cùng với thầy là Động Sơn khai sáng giòng Tào Động.

[2] Vốn sẵn của nhà: Trong bản, chúng tôi thấy chép là Thanh Nguyên Bạch gia tửu (Rượu nhà họ Bạch ở Thanh Nguyên). Chúng tôi nghĩ rằng chữ Bạch có lẽ do chữ Tự (tự gia: tự mình, nhà mình) vì sao chép lâu ngày mà thiếu đi một nét chăng?

[3] Phạm Nhiễm: Kẻ sĩ, sống vào thế kỷ thứ 2, được bổ làm quan nhưng vì mẹ bị bệnh, không tựu chức được. Suốt đời lận đận cơ hàn, phải sinh sống bằng nghề bói dạo. Hàng ngày tự đẩy xe chở vợ con đi lang thang, ngủ bờ bụi.

[4] Hạng Võ: (244-201 tr. TL) Tức Hạng Tịch, người Hạ Tượng, Cối Kê (Trung Hoa). Nỗi danh với sức mạnh vô địch và ý chí dũng lực. Giết Tần Tử Anh (con của Tần Thuỷ Hoàng), đốt Kinh Đô Tần là Hàm Dương cùng cung thất cháy rụi. Sau tranh hùng với Lưu Bang, bị Lưu Bang đánh bại, phải tự tử ở sông Ô Giang.