ĐỆ NGŨ TẮC
HƯƠNG NGHIÊM THƯỢNG THỤ
- CỬ:
Hương Nghiêm hoà thượng vân:
— Như nhân thượng thụ, khẩu hàm thụ chi, thủ bất phàn chi, cước bất đạp thụ. Thụ hạ hữu nhân, vấn Tây lai ý. Bất đối tức vi tha sở vấn, nhược đối hựu táng thân thất mạng. Chính nhậm ma thời, tác ma sinh đối?
- BÌNH:
Túng hữu huyền hà chi biện, tổng dụng bất trước. Thuyết đắc nhất đại tạng giáo, diệc dụng bất trước. Nhược hướng giả lý đối đắc trước, hoạt khước tùng tiền tử lộ đầu, tử khước tùng tiền hoạt lộ đầu. Kỳ hoặc vị nhiên, trực đãi đương lai vấn Di Lặc.
- TỤNG:
Hương Nghiêm chân đỗ soạn,
Ác độc vô tận hạn.
Á khước nạp tăng khẩu,
Thông thân tích quỷ nhãn.
BÀI THỨ NĂM
HƯƠNG NGHIÊM LEO CÂY
- CÔNG ÁN:
Hoà thượng Hương Nghiêm[1] nói:
— Như người trên cây, miệng cắn vào cành, tay chân lơ lửng. Dưới cây có người hỏi ý Tây lai[2], không đáp thì phụ câu hỏi, còn đáp lại thì bỏ thân mất mạng. Vậy phải đối đải làm sao?
- LỜI BÀN:
Dầu có lời biện luận khúc chiết đều không dùng được. Giảng được một tạng Kinh lớn cũng vô ích. Nếu đáp được chỗ ấy thì khơi dậy được con đường chết trước kia, diệt được con đường sống trước kia. Còn nếu chưa đáp được thì chờ sau này hỏi Di Lặc[3].
- KỆ TỤNG:
Hương Nghiêm thực ngoa nguỵ,
Ác độc quả thâm thuý.
Chận nghẹn họng thầy tu,
Cùng mình ló mặt quỷ.
[1] Hương Nghiêm: Giòng Mã Tổ. Trước học với Bách Trượng, sau qua học với Quy Sơn (771-853). Tu tại núi Hương Nghiêm và có khá nhiều môn đệ. Người ta thường nhắc đến việc Sư trong lúc quét sân chùa, nghe tiếng viên sỏi chạm vào bụi trúc mà bỗng nhiên đại ngộ.
[2] Ý Tây lai: Ý chỉ của Pháp môn « kiến tính thành Phật » do Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ (phía Tây) sang truyền bá ở Trung Hoa. Từ ngữ này cũng có thể chỉ tối hậu của Phật pháp nói chung.
[3] Di Lặc: Maitreya, Từ Thị, A Dật Đa, Vô Năng Thắng… Là bậc đại Bồ Tát sẽ thành Phật kế Đức Thích Ca Mâu Ni. Hiện ở cung trời Đâu Suất, sau này sẽ giáng sinh cõi Nhân gian, thành Phật, chủ trì pháp hội Long Hoa.